Tống Thái-tổ được truyền khoa Tử-vi qua bộ Tử-vi chính nghĩa, giữ làm của riêng của hoàng tộc họ Triệu. Bộ sách chỉ được lưu truyền trong hoàng cung để biết kẻ trung, người nịnh, cũng như để dự đoán vận số nhằm mưu đồ đại sự. Tất cả công trình nghiên cứu của hoàng tộc nhà Tống sau được chép thành sách gọi là Ngự giám tử-vi. Nhưng khi nhà Tống mất, con cháu nhà Tống dùng bộ sách này làm kế sinh nhai, nên không dám dùng tên cũ nữa mà đổi thành Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh.
So sánh giữa bộ Tử-vi chính nghĩa và bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh, thì bộ thứ nhất có tính chất lý thuyết đại cương, như những định luật. Bộ thứ nhì mang tính chất thực nghiệm, thu góp kinh nghiệm mấy trăm năm nghiên cứu lại. Như bộ thứ nhất không bàn đến việc:
- Hai người sinh cùng ngày, giờ, tháng, năm nhưng lá số khác nhau. Bộ thứ nhì đi vào chi tiết này rất kỹ.
- Số người sinh đôi. Bộ thứ nhì nghiên cứu đến mấy trăm cặp sinh đôi.
- Số những người chết tập thể, như chết chìm đò, chết trong chiến tranh. Bộ thứ nhì lại nghiên cứu kỹ hơn, đưa ra giải pháp giải quyết v.v…
Sau đây, chúng tôi trình bày một giai thoại về Tử-vi đời Tống, mà hầu như ai cũng biết, và sử Trung Quốc cũng có chép:
Khi còn cầm quân tranh thiên hạ, Tống Thái-tổ có người em kết nghĩa tên là Trịnh Ân. Trịnh Ân là một võ tướng dũng mãnh, tài ba. Vợ của ông, Đào Tam Xuân, cũng là một nữ tướng.
Cả hai đã giúp Thái-tổ lập nên nghiệp lớn. Thái-tổ phong cho Trịnh Ân tước vương và cử ông thay vua trấn thủ ngoài biên ải. Nhân đầu năm, Thái-tổ xem số các tướng sĩ, văn võ quần thần, thấy số của Trịnh Ân là Tướng-quân, Thiên-tướng thủ mệnh, đại hạn gặp Kình-dương, tiểu hạn gặp Thiên-hình. Lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kỵ, bèn nói với quần thần rằng:
- Trịnh Ân do hai ông tướng thủ mệnh. Tướng sợ nhất là kiếm và đao, không sợ Hỏa, Linh, Kiếp, Không. Nay đại hạn ngộ Kình là dao, tiểu hạn ngộ Hình là kiếm. Ta e rằng Ân sẽ bị chém mất đầu. Đã vậy, lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kỵ thì sẽ do kẻ tiểu nhân ám hại. Hơn nữa, Kiếp, Kỵ lại ngộ Hồng, Đào, thì kẻ hại Trịnh Ân sẽ là đàn bà. Triều đình đề nghị gọi Trịnh Ân về triều để được bảo vệ.
Bấy giờ, Trịnh Ân đang trấn thủ ngoài xa, nghe lệnh triệu hồi về kinh thì tuân theo. Khi đến kinh, thấy một toán quân hầu hộ vệ kiệu vua, tiền hô hậu ủng, Ân tưởng Thái-tổ, vội xuống ngựa, phủ phục bên đường tung hô vạn tuế. Nhưng khi ngẩng đầu lên, không phải là vua, mà là cha của một phi tần được Thái-tổ sủng ái. Chức tước và địa vị của Trịnh Ân cao hơn nhiều, vậy mà phải lạy phục xuống đất thì nhục quá. Trịnh Ân nổi giận, lôi vị Quốc-cữu xuống đất đánh cho một trận vì tội tiếm nghi vệ Thiên-tử. Vị Quốc-cữu bị đòn nhừ tử, về nhà báo cho con gái, khóc lóc đòi trả thù. Vị phi thấy cha bị đòn đau, trở vào cung, phục rượu cho Thái-tổ say mèm, rồi dâng biểu tố Trịnh Ân làm phản, đập phá nghi trượng Thiên-tử. Tống Thái-tổ say quá không tự chủ được, phê vào chữ “Trảm”. Thế là Trịnh Ân bị mang ra chém đầu. Khi Thái-tổ tỉnh rượu, được triều đình tâu lại sự việc, thì chỉ còn biết bưng mặt khóc lớn.
Đào Tam Xuân thay chồng trấn ngoài ải, thấy chồng bị thác oan, liền truyền quân sĩ để tang, kéo quân về triều hỏi tội. Các tướng phần vì bất mãn với việc Thái-tổ giết Trịnh Ân nên không quyết tâm chiến đấu, hơn nữa không địch nổi Tam Xuân, nên thua chạy. Tam Xuân vây kinh thành rất gấp. Triều đình tâu giết thứ phi, giết cả nhà Quốc-cữu để tạ tội với Tam Xuân. Nhưng Tam Xuân vẫn không lui binh.
Tình hình nguy ngập, Triệu Quang Nghĩa tâu với Tống Thái-tổ (Quang Nghĩa là em Tống Thái-tổ, sau được truyền ngôi vua):
- Thần xem số của Tam Xuân, thấy Vũ-khúc, Phá-quân thủ mệnh. Vũ-khúc thì hay giận, Phá-quân thì nhẹ dạ. Tử-vi kinh nói rằng: Chỉ có Lộc-tồn chế được tính ác của Vũ-khúc, Thiên-lương chế được tính điên của Phá-quân. Vậy ở đây có vị văn thần nào Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, thần đề nghị cho người ấy thuyết phục Tam Xuân.
Thái-tổ chuẩn tấu, tìm ngay ra vị văn thần có tên Cao Hoài Đức có cách trên, sai ra ngoài thành thuyết phục Tam Xuân. Quả nhiên, Tam Xuân lui binh. Từ đó, trong suốt đời nhà Tống, con cháu họ Trịnh được nối tiếp nhau phong tước.
Như vậy, Triệu Quang Nghĩa đã học tới trình độ khá uyên thâm về khoa Tử-vi, nên biết cách dùng phá cách dữ tợn của Tam Xuân và trợ cách giúp Thái-tổ. Nghiên cứu lá số của Thái-tổ, năm đó đại hạn ngộ Kỵ, tiểu hạn đi vào cung nô, gặp Thiên-thương, Kiếp. Hạn Thiên-thương gặp Kiếp, Không thường là hạn bị hàm oan, nguy đến tính mệnh. Chính Khổng Tử bị hạn này, từng bị vây tại nước Trần, suýt chết đói. Số của Cao Hoài Đức, ngoài Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, đại hạn ngộ Quyền, Khốc, Hư, Xương, Lương, Lộc chỉ chế được Tam Xuân. Nhưng chính Quyền, Khốc, Hư đã khiến Tam Xuân nghe theo, và Văn-xương là sao giải hạn Địa-kiếp vậy.
—Theo Trần Đại Sỹ—