1. Sự khác biệt về số sao

1.1. Bộ Tử-vi chính nghĩa
Được coi như là chính thư. Không nói về số sao. Song trong mục dạy an sao có 93 sao, đó là:

1.1.1. Các chòm:

  • Tử-vi: 6 sao là Thiên-cơ, Thái-dương, Vũ-khúc, Thiên-đồng, Liêm-trinh.
  • Thiên-phủ: 8 sao là Thiên-phủ, Thái-âm, Tham-lang, Cự-môn, Thiên-tướng, Thiên-lương, Thất-sát, Phá-quân.
  • Thái-tuế: 5 sao là Thái-tuế, Tang-môn, Điếu-khách, Bạch-hổ, Quan-phù.
  • Lộc-tồn: 17 sao là Lộc-tồn, Kình-dương, Đà-la, Quốc-ấn, Đường-phù, Bác-sĩ, Lực-sĩ, Thanh-long, Tiểu-hao, Tướng-quân, Tấu-thư, Phi-liêm, Hỉ-thần, Bệnh-phù, Đại-hao, Phục-binh, Quan-phủ.
  • Trường-sinh: 12 sao là Trường-sinh, Mộc-dục, Quan-đới, Lâm-quan, Đế-vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

1.1.2. Các sao an theo tháng:
7 sao là Tả-phụ, Hữu-bật, Tam-thai, Bát-tọa, Thiên-hình, Thiên-riêu, Đẩu-quân.

1.1.3. Các sao an theo giờ:
8 sao là Văn-xương, Văn-khúc, Ấn-quang, Thiên-quý, Thai-phụ, Phong-cáo, Thiên-không, Địa-kiếp.

1.1.4. Tứ trợ tinh:
4 sao là Hóa-quyền, Hóa-lộc, Hóa-khoa, Hóa-kỵ.

1.1.5. Các sao an theo chi:
17 sao là Long-trì, Phượng-các, Thiên-đức, Nguyệt-đức, Hồng-loan, Đào-hoa, Thiên-hỉ, Thiên-mã, Hoa-cái, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Hỏa-tinh, Linh-tinh, Thiên-khốc, Thiên-hư.

1.1.6. Các sao an theo can:
5 sao là Lưu-hà, Thiên-khôi, Thiên-việt, Tuần-không, Triệt-không.

1.1.7. Các sao cố định:
4 sao là Thiên-thương, Thiên-sứ, Thiên-la, Địa-võng.


1.2. Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi Kinh
Đều ghi có 93 sao, giống như bộ Tử-vi chính nghĩa.


1.3. Bộ Tử-vi Đại Toàn
Ghi rõ rằng trong lá số phải có 93 sao như Hi-Di tiên sinh. Nếu an thiếu, đủ hoặc khác đi đều là tạp thư, ma thư do đạo sĩ bịa đặt để lừa gạt, còn giả đạo đức, tỏ ra là người bác học nhưng chẳng qua là phường lưu manh!


1.4. Bộ Tử-vi Đẩu-số Toàn Thư
Nói về số sao rất lờ mờ. Phần dạy cách an sao có ghi rõ 85 sao. Các sao cũng giống như ba bộ trên nhưng thiếu các sao: Đào-hoa, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Lưu-hà. Tuy nhiên, khi đọc bài phú nói về các sao, lại thấy đề cập đến Đào-hoa, Ân-quang, Thiên-quý…


1.5. Bộ Đông A Di Sự
Ghi đúng 93 sao như các bộ trên, nhưng khi xét các lá số để chiêm nghiệm thì thấy thiếu các sao: Bác-sĩ, Thiên-la, Địa-võng, Thiên-thương, Thiên-sứ. Có lẽ các Tử-vi gia đời Trần quan niệm rằng các sao trên đều ở vị trí cố định nên không cần an vào, như sao Bác-sĩ luôn đóng chung với Lộc-tồn; Thiên-thương luôn ở cung Nô; Thiên-sứ luôn ở cung Tật-ách; Thiên-la luôn ở cung Thìn và Địa-võng luôn ở cung Tuất.


1.6. Bộ Tử-vi Âm-dương chính nghĩa Bắc-tông
Ghi đến 104 sao. Các sao giống như chính thư về số sao và cách an sao, nhưng thêm các sao: Thiên-tài, Thiên-thọ, Thiên-trù, Thiên-y, Thiên-giải, Địa-giải, Giải-thần, Thiên-lộc, Lưu-niên văn-tinh, Thiên-quan quý-nhân, Thiên-phúc quý-nhân.


1.7. Bộ Tử-vi Âm-dương chính nghĩa Nam-tông
Ghi tới 128 sao. Các sao giống như bộ Bắc-tông, nhưng thêm 24 sao khác như Thái-túc, Niên-xá, Thiên-khôi, Nguyệt-khôi, Niên-thổ-khúc, Nguyệt-thổ-khúc, Thiên-thương (kho lúa, khác với Thiên-thương ở cung Nô), Thiên-phủ-khố, Thiên-tiễn, Hồng-diệm, Địa-không, Phù-trầm, Sát-nhận… Vòng Thái-tuế thêm 7 sao nữa cho đủ 12 sao: Thiếu-dương, Thiếu-âm, Tử-phù, Tuế-phá, Long-đức, Phúc-đức, Trực-phù, Tứ-phi-tinh, Thiên-trượng, Thiên-dị, Mao-đầu, Thiên-nhận.


1.8. Bộ Tử-vi Thiển Thuyết gồm 128 sao
Giống như bộ Nam-tông nhưng thêm 13 sao nữa rất quái dị, không có trong thiên văn mà chỉ có trong tiểu thuyết thần kỳ chí quái: Nam-cực, Đông-đẩu tinh-quân, Bắc-đẩu tinh-quân, Nam-đẩu tinh-quân, Cửu-thiên huyền-nữ, Dao-trì kim-mẫu, Vũ-tinh, Lôi-tinh, Thiên-vương tinh, Địa-tạng tinh, Thái-bạch kim-tinh.


1.9. Lịch Số Tử-vi Toàn Thư
Số sao giống bộ Tử-vi Thiển Thuyết nhưng dạy an sao ngược với các bộ khác. Sao Trường-sinh không chỉ an ở Dần, Thân, Tý, Hợi mà còn thấy ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Vòng Tử-vi an xuôi, vòng Thiên-phủ an ngược, với tổng cộng 128 sao.


2. Sự khác biệt về sao lưu niên
2.1. Chính thư
Các sao lưu niên đều an giống nhau, số sao cũng giống nhau:
-Vòng Lộc-tồn với 15 sao không có Quốc-ấn, Đường-phù. (Bộ Tử-vi đẩu số toàn thư chỉ nói đến hai sao Kình, Đà thôi)
– Thiên-khôi, Thiên-việt, Thiên-mã, Thiên-khốc, Thiên-hư và vòng Thái-tuế 5 sao, Vănxương, Văn-khúc. Tất cả 27 sao.
2.2. Tạp thư
Vẫn gồm các sao như bộ chính thư nhưng thêm: Hỏa-huyết, Lan-can, Quân-sách, Quyện thiệt, Bạo-tinh, Thiên-ách, Thiên-cẩu, Huyết-nhận, Huyết-cổ, Ngũ-quỷ và vòng Trường sinh 12 sao.


3. Sự khác biệt về đại hạn
Chính phái an đại hạn như sau:
– Từ lúc đẻ ra tới số cục thì đại hạn an tại cung Mệnh.
– Đại hạn thứ nhất sẽ an vào cung phụ mẫu, hoặc huynh đệ.
Tỷ như: Người Hỏa-lục-cục, thì từ 1 tới 5 tuổi thì đại hạn ở cung Mệnh. Từ 6 tuổi trở đi thì đại hạn ở cung Huynh đệ hoặc Phụ-mẫu.
– Nhưng Nam phái lại an ngay đại hạn thứ nhất ở cung Mệnh, rồi đại hạn thứ nhì ở cung Phụ mẫu hoặc Huynh đệ. Như vậy từ lúc đẻ ra tới số tuổi “số cục” không có đại hạn.
Sự khác biệt này, đã khiến cho Nam phái phải đi tìm nhiều sao khác, hoặc nhiều thuật khác, để đoán cho đúng, nhất là đoán vận hạn chết rất quan trọng. Bắc phái đoán rất trúng, nhưng theo Nam phái lại khó khăn. Sự khác nhau về hạn, khiến cho Nam phái không dùng bài phú đoán của Hy-Di tiên sinh được. Bởi phú đoán thì an đại hạn theo Bắc phái. Những người học theo Nam phái thường tỏ ý nghi ngờ các bài Phú. Họ phải dò dẫm, tìm hiểu lâu năm mới đưa ra lối giải quyết. Trong khi những người học theo Bắc phái, thì ngay sau khi học an sao, học có thể học cách giải đoán bằng cách xử dụng phú đoán được.
Tỷ dụ: Chính phái đoán số Hạng Vũ, căn cứ vào phú đoán:
Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên-không nhi táng quốc. Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa-kiếp dĩ vong gia. Nghĩa là Hạng Vũ anh hùng nhưng hạn ngộ Thiên-không nên mất nước. Thạch Sùng giàu có nhưng hạn gặp Địa-kiếp nên tan nhà nát cửa. Nếu xét theo Nam phái thì câu phú trên không đúng được:
– Thứ nhất, theo Bắc phái chỉ có sao Thiên-không, Địa-kiếp đi đôi với nhau, không có sao Địa-không. Sao Thiên-không không đóng ở vị trí sao Địa-không của Nam phái và không
có sao Thiên-không trước Thái-tuế một cung. Hạng Vũ, đại hạn tới Dần gặp Địa-kiếp, tiểu hạn ở Thân gặp Thiên-không. Đại, tiểu hạn Kiếp, Không gặp nhau nên táng quốc. Dù đại hạn có Đồng, Lương, Quyền cũng không giải nổi. Bàn về số Thạch Sùng cũng tương tự. Nếu đoán theo Nam phái bài phú trên cũng không đúng:
– Đại hạn đang tới cung Mão, gặp Thái-tuế, mà Thiên-không đóng ở Thìn.
Như vậy không có vụ Hạng Võ chết về Kiếp, Không lâm nạn, Sở vương táng quốc. Mà chỉ có việc Hạng Võ gặp hạn Địa-không ở Thân mà thôi.
Hồi còn ở Việt-nam, chúng tôi dạy Tử-vi cho các vị yêu khoa này, thường thì những vị chưa biết gì học mau hơn. Còn các vị học theo Nam phái, học thêm mấy chục bài phú nữa, mất công chỉnh đốn lại. Bởi vậy chúng tôi có lời khuyên: Các vị học theo Nam phái thì không nên học những bài phú của Hy-Di, mà học các bài phú của Ma-Y thuộc Nam phái mà thôi. Nếu không đầu óc sẽ lộn tùng phèo.


4. Sự khác biệt về an sao
Trong 93 tinh đẩu không có sự khác biệt. Nhưng duy sau này những bộ tạp thư đưa ra an những sao mới, hoàn toàn do họ đặt ra, có sự quái gở khi an vòng Trường-sinh: Họ khởi Trường-sinh ở cả Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Về an Khôi, Việt thì chính thư, tạp thư chỉ khác nhau có tuổi Canh mà thôi: Chính thư Khôi ở Sửu, Việt ở Mùi. Trong khi tạp thư thì cho ở Dần, Ngọ. Về an tứ hóa: Tuổi Canh cũng bị lộn như Hóa-lộc đi với Thái-dương, Hóa-quyền đi với Vũ-khúc, Hóa-khoa đi với Thiên-đồng, Hóa-kî đi với Thái-âm. Trong khi tạp thư Hóa-khoa đi với Thái-âm, trong khi Hóa-kî đi vối Thiên-đồng.


5. Đối với sách Tử-vi hiện tại
Trừ bộ Tử-vi đẩu số toàn thư do Vũ Tài Lục lược dịch, một vài đoạn đúng với chính thư, còn các sách khác, chúng tôi không tiện phân tích xem sách của vị nào ảnh hưởng của phái nào bên Trung-quốc! Vân Điền Thái Thứ Lang là một đại đức Phật giáo, ông bị tử nạn xe hơi đã lâu, nên chúng tôi có thể bàn về sách của ông: Rất gần với chính phái. Ông Vũ Tài Lục là con của cụ Kép Nguyễn Huy Chiểu, hiện ở Hoa-kỳ. Còn ông Nguyễn Phát Lộc với chúng tôi có chút duyên văn nghệ, trước đây ông là phó Đặc-ủy trung ương tình báo VNCH, không rõ nay ở đâu, nếu ông còn ở Việt-nam thì có lẽ đã bị giết rồi.
Chúng tôi quan niệm: Dù tất cả Tử-vi gia thuộc phái nào đi nữa, cũng cần có kinh nghiệm. Về phương diện nghề nghiệp, họ phải dùng Tử-vi làm kế sinh nhai là điều bất đắc dĩ, bới bỏ tâm não ra, an sao, chấm số, giải đoán một lá số Tử-vi không tiền nào, bạc nào trả họ nổi cả. Dù không trả tiền với tinh thần khoa học, họ cũng say mê nghiên cứu. Chính chúng tôi kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng khi thấy một lá số kỳ lạ, cũng chẳng ngần ngại gì mà không bỏ ra cả ngày để nghiền ngẫm cho ra nguyên lý.

—Theo Trần Đại Sỹ—